Trong thập kỷ qua, các ngành dịch vụ là khu vực đóng góp lớn nhất của nền kinh tế. Theo Báo cáo "Đánh thức tiềm năng dịch vụ để tăng trưởng" của Ngân hàng thế giới (WB), khu vực dịch vụ đã và đang có những đóng góp hết sức quan trọng cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, những kết quả đạt được còn khiêm tốn so với các quốc gia so sánh khác.
Các ngành dịch vụ là khu vực đóng góp lớn nhất của nền kinh tế
Báo cáo của WB cho biết quy mô khu vực dịch vụ đã tăng từ 40,7% GDP trong năm 2010 lên 44,6% GDP trong năm 2019. Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, tỷ lệ lao động làm việc trong các ngành dịch vụ tăng từ 19% năm 1991 lên 35,3% năm 2019, hấp thụ phần lớn lao động dịch chuyển ra khỏi ngành nông nghiệp và biến khu vực dịch vụ trở thành nguồn cung cấp việc làm đứng thứ hai trong cả nước, sau nông nghiệp. Trong thời gian tới, các ngành dịch vụ có thể đóng vai trò chính trong hỗ trợ Việt Nam duy trì tăng trưởng năng suất một cách bền vững để vươn tới khát vọng trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045.
Trên thế giới, tất cả các nền kinh tế thu nhập cao đều có đặc trưng sở hữu một khu vực dịch vụ lớn, vừa là nơi thu hút việc làm lớn nhất vừa tạo giá trị gia tăng (GTGT), đóng vai trò thiết yếu để nâng cao năng suất cho các nền kinh tế đó. Ngoài ra, dịch vụ còn đóng vai trò quan trọng nhằm nâng cấp mô hình phát triển của Việt Nam qua nâng cao GTGT ở các ngành, lĩnh vực khác trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, kết quả đạt được của khu vực dịch vụ tại Việt Nam chưa xứng tầm so với các quốc gia so sánh khác. Năng suất và việc làm ở khu vực dịch vụ của Việt Nam vẫn thấp hơn so với các quốc gia so sánh trong khu vực, có cơ cấu tương tự hoặc phát triển hơn. Trong đó, một phần nguyên nhân lớn đến từ quy mô nhỏ của các công ty, hạn chế đối với thương mại dịch vụ, áp dụng công nghệ thấp và ít liên kết liên ngành ảnh hưởng đến năng suất.
ĐMST qua áp dụng công nghệ là hướng đi để nâng cao năng suất khu vực dịch vụ
Theo WB, đẩy mạnh ĐMST qua áp dụng công nghệ là một hướng đi để nâng cao năng suất trong khu vực dịch vụ. Theo khảo sát về áp dụng công nghệ ở cấp độ DN (Firm-level Adoption of Technology - FAT), ở Việt Nam, DN dịch vụ nói chung đứng thứ 2 và DN tiên phong xếp hạng 2,5 trên thang điểm từ 1 - 5, vẫn còn khoảng cách khá xa so với các DN tiên phong toàn cầu xét về áp dụng công nghệ trong cung cấp dịch vụ.
Khác với các lĩnh vực chế tạo chế biến, vốn và tài sản vật chất trong nhiều lĩnh vực dịch vụ (ngoại trừ một số lĩnh vực như viễn thông, kho bãi, và vận tải) đóng vai trò không lớn. Ngược lại, các hình thái vốn có tính chất vô hình hơn, như phần mềm, tài sản số, tài sản trí tuệ, giá trị thương hiệu, và tri thức nội bộ, thực tế lại đóng vai trò hết sức quan trọng.
Vì vậy, để tận dụng công nghệ và các sáng kiến ĐMST, báo cáo gợi ý trong thời gian tới, các cấp có thẩm quyền có thể cần cân nhắc giảm rào cản gia nhập của vốn FDI vì công nghệ và ĐMST phụ thuộc vào khả năng tiếp cận tri thức, các mạng lưới, con người, hàng hóa và dịch vụ mà có thể lan tỏa tri thức đi khắp thế giới; đồng thời thực hiện những cải cách về môi trường kinh doanh để nâng cao cạnh tranh và khả năng tiếp cận tài chính cho các DN trong nước.
Ngoài ra, chính phủ cần khuyến khích tiếp tục áp dụng công nghệ số trong từng DN để thúc đẩy ĐMST. Đánh giá mới đây của WB về các chính sách khoa học, công nghệ và ĐMST của Việt Nam cho thấy đã có sự quan tâm lớn hơn đến thúc đẩy ĐMST dựa trên nghiên cứu phát triển, chính phủ cũng đang nỗ lực “thúc đẩy hàng ngũ tiên phong về công nghệ” bằng cách hỗ trợ các trường đại học và viện nghiên cứu.
WB cho rằng sẽ rất hữu ích nếu các chính sách giải quyết được những vấn đề như ưu tiên ĐMST, tài trợ cho R&D (nghiên cứu & phát triển) tập trung hơn vào việc nâng cấp năng lực của DN thông qua việc áp dụng và khuếch tán công nghệ. Đồng thời, cơ quan quản lý đưa ra những công cụ chính sách có thể hỗ trợ chuyển giao kiến thức và công nghệ hơn nữa cho các DN vừa và nhỏ (SME). Các chính sách và công cụ tài trợ có thể hỗ trợ một số lượng lớn hơn các công ty tham gia vào việc từng bước đổi mới sản phẩm, nâng cấp quy trình và áp dụng các công nghệ hiện có.
Cần tập trung vào việc tăng cường các kỹ năng của người lao động, đặc biệt là các kỹ năng kỹ thuật số cơ bản cũng như năng lực của các công ty và nhà quản lý. WB cho rằng các nhà hoạch định chính sách có thể hỗ trợ nâng cấp các kỹ năng, năng lực và thực tiễn quản lý, thúc đẩy chương trình cải cách và cung cấp nguồn lực, khuyến khích quan hệ đối tác giữa các trường đại học và các công ty khu vực tư nhân để tăng cường đào tạo, cũng như xem xét vấn đề chi phí của các chương trình đào tạo.
Khai thác dịch vụ sẽ thúc đẩy tăng trưởng cao hơn ở các ngành, lĩnh vực vực khác, đặc biệt là chế tạo chế biến. Ví dụ, dịch vụ số có thể đóng vai trò lớn nhằm đưa công nghệ mới và ĐMST vào các hoạt động chế tạo chế biến, do hiện nay mới chỉ có rất ít DN đang sử dụng công nghệ số.
Mở rộng quy mô, lan tỏa ĐMST đến nhiều ngành
Mở rộng quy mô, ĐMST và đảm bảo tác động lan tỏa liên ngành là cách để nâng cao năng suất của khu vực dịch vụ và của các ngành, lĩnh vực liên quan. Thành công của các lĩnh vực chế tạo chế biến trong tạo việc làm tại Việt Nam - và các quốc gia khác - có được là nhờ khả năng mở rộng quy mô, hỗ trợ ĐMST và tác động lan tỏa.
Nhìn chung, các lĩnh vực chế tạo chế biến có khả năng sử dụng lao động có năng suất theo quy mô lớn nhờ vào khả năng đảm bảo hiệu quả kinh tế do quy mô bằng cách đẩy mạnh phân công lao động; nâng cao sự đóng góp của lao động (và năng suất) nhờ áp dụng các công nghệ đem lại hiệu suất hơn; và đảm bảo tác động lan tỏa mạnh mẽ hơn giữa các DN chế tạo chế biến khác nhau thông qua kết nối giữa nhà cung cấp và khách hàng.
Những yếu tố nêu trên lâu nay vẫn đóng vai trò không đáng kể trong các ngành, lĩnh vực dịch vụ ở Việt Nam, là quốc gia - giống như các nền kinh tế mới nổi khác - có đặc trưng là gồm các DN nhỏ, ít vốn và ít kết nối với các thành phần khác của nền kinh tế. Đó chính là lý do đã và đang làm hạn chế mức độ phát triển của khu vực dịch vụ.
Công nghệ số sẽ tạo cơ hội mở rộng quy mô và ĐMST trong khu vực dịch vụ, đẩy mạnh kết nối với các ngành, lĩnh vực khác, qua đó nâng cao đóng góp của khu vực dịch vụ cho tăng trưởng tại Việt Nam. Các khảo sát về áp dụng công nghệ cho thấy, Việt Nam vẫn còn khả năng đẩy mạnh các quy trình dựa vào quy mô và ĐMST.
Một số lao động Việt Nam đã tích cực tham gia các nền tảng số lớn, như Upwork, Fiverr, Freelancer, và MTurk (Kässi & Lehdonvirta 2018). Sự tham gia như vậy cần được khuyến khích để bắt nhịp với các quốc gia trong khu vực như Philippines và Trung Quốc. Đẩy mạnh áp dụng công nghệ số sẽ tạo điều kiện giúp các DN dịch vụ mở rộng quy mô qua giao dịch được với nhiều khách hàng hơn, không gặp phải giới hạn địa lý.
Thực tế, sự phát triển của công nghệ giúp giảm rào cản về khoảng cách địa lý giữa bên cung cấp và người tiêu dùng, rào cản thương mại và đầu tư, từ đó nâng cao khả năng thương mại và mở rộng thương mại, tạo điều kiện cho các DN dịch vụ Việt Nam cơ hội mở rộng quy mô.
Mở rộng khả năng tiếp cận công nghệ số, đào tạo và phát triển kỹ năng cho người lao động và cán bộ quản lý cũng là điều kiện cần để hiện thực hóa tiềm năng ĐMST có thể đem lại qua CNTT&TT và những tài sản vô hình liên quan. Nhận thức được tiềm năng kết nối với các ngành, lĩnh vực khác và đặt mục tiêu phát triển các dịch vụ bổ trợ có thể là cách để tối đa hóa hiệu ứng lan tỏa.
Áp dụng công nghệ số cũng thể đem lại các hình thức ĐMST mới và nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ. Chẳng hạn, các DN bán lẻ có thể sử dụng các hệ thống số để quản lý hàng lưu kho, theo dõi mua hàng, và tự động hóa nghiệp vụ ghi chép sổ sách để nâng cao hiệu suất. Trong khi đó, áp dụng dịch vụ số trong các ngành công nghiệp cũng là cách để nâng cao hàm lượng đầu vào dịch vụ trong quy trình chế tạo chế biến, đặc biệt là các dịch vụ CNTT.
Nhìn chung, DN dịch vụ Việt Nam vẫn có quy mô tương đối nhỏ nếu so với các quốc gia ở cùng mức thu nhập. Tuy phần nào đã có những tiến triển trong áp dụng công nghệ số, nhưng các DN dịch vụ vẫn còn nhiều điều cần cải thiện để ĐMST theo hướng áp dụng công nghệ nhằm đem lại năng suất cao hơn./.