Triển khai dự án hỗ trợ người dân tiếp cận DVCTT
Trong quá trình thực hiện Chương trình chuyển đổi số (CĐS) quốc gia, DVCTT đang trở nên ngày càng quan trọng. Việc này không chỉ giúp tạo ra sự thuận tiện cho người dân, nhất là trong thời gian thiên tai, dịch bệnh, mà còn nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong việc quản lý của chính quyền. Chính phủ đề ra mục tiêu cung cấp 25 DVCTT thiết yếu vào năm 2025.
Tuy nhiên, theo Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), DVCTT vẫn là một điểm yếu của dịch vụ công (DVC) ở Việt Nam. Theo kết quả PAPI năm 2022, chỉ có 4,85% người dân được hỏi từng lên trang cổng DVCTT quốc gia, trong đó chỉ hơn 1% sử dụng DVCTT. Chỉ số này cho thấy, các cấp chính quyền địa phương vẫn còn nhiều việc phải làm để người dân sử dụng DVCTT nhiều hơn, tương xứng với tỉ lệ lớn người dân đang sử dụng Internet hiện nay.
Tỉ lệ người dùng Cổng DVC Quốc gia theo các mục đích, giai đoạn 2020-2022
Trong thời gian vừa qua, UNDP đã và đang phối hợp cùng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu tại sao chúng ta đầu tư rất nhiều cho chính phủ điện tử, cho ICT ít nhất là hơn 10 năm qua, tuy nhiên, hiệu quả cho đến bây giờ còn thấp và số lượng người dùng còn thấp hơn.
Để tìm ra nguyên nhân và giải pháp, trong khuôn khổ Chương trình nghiên cứu hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) do Bộ Ngoại giao và Thương Mại Úc (DFAT) và Đại sứ quán Ai-len hỗ trợ, năm 2021, UNDP đã phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện nghiên cứu hiện trạng và tư vấn giải pháp cải thiện điều kiện tiếp cận DVCTT ở tỉnh Hà Giang. Đây là 1 trong 3 tỉnh (cùng Gia Lai và Trà Vinh) được chọn cho nghiên cứu này.
Cuối năm 2021, tỉnh Hà Giang đã chủ động gửi đề án cải tiến DVCTT cho người dân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở bốn xã thuộc hai huyện Bắc Quang và Xín Mần tới UNDP đề xuất hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ hợp phần Sáng kiến chính quyền vì người dân thuộc Chương trình nghiên cứu PAPI, từ nguồn tài trợ của DFAT.
Tại tỉnh Hà Giang, nơi có hơn 87% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số và có nhiều rào cản về tiếp cận, nhiều điểm lõm Internet và gần 44% người dân chưa có điện thoại thông minh, việc đưa DVCTT đến với người dân trở nên thách thức hơn bao giờ hết.
Nâng cao nhận thức cho người dân về CĐS và lợi ích mà hoạt đông này mang lại
Ông Hoàng Gia Long, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hà Giang, khẳng định đây là một Dự án rất cần thiết và phù hợp với tỉnh, trong bối cảnh tỉnh Hà Giang còn đang khó khăn về nhiều mặt. Tỉnh đang nỗ lực đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, trong đó tập trung các giải pháp nâng cao kết quả giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) và tập trung vào chuyển đổi số (CĐS), nâng cao dịch vụ công nhất là hỗ trợ người dân tham gia giải quyết TTHC.
Mục tiêu chính của dự án
Theo ông Edmund Malesky, thành viên nhóm nghiên cứu PAPI từ năm 2009, nhiều chính quyền địa phương đã có nỗ lực lớn trong những năm qua để mang lại lợi ích cho người dân, đặc biệt cải thiện về DVCTT.
Yếu tố này có ý nghĩa quan trọng với Việt Nam trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế vừa qua, khi tăng cường hiệu quả quản trị điện tử chính là động lực để tăng tính minh bạch, giảm tham nhũng. Khảo sát thực tế PAPI 2022 cho thấy, mặc dù tỷ lệ người dân sử dụng Internet tại nhà tăng lên nhưng tỷ lệ DVCTT phục vụ người dân lại không tăng.
Lý giải việc tỷ lệ người dân tiếp cận các CVCTT còn thấp, theo bà Đỗ Thanh Huyền, chuyên gia phân tích chính sách công, UNDP cho biết: Có rất nhiều lý do và một trong những lý do căn bản nhất là theo thiếu đầu tư cho cấp xã, nơi sát với dân nhất, hiện nay chúng ta mới chỉ tập trung đầu tư cho cấp tỉnh và trung ương nhưng phần tương tác thường ngày với người dân lại chưa được chú trọng.
Để nắm bắt một cách tường tận, nội dung nghiên cứu trong dự án tập trung trả lời một số câu hỏi sau đây:
- Tại sao tỷ lệ người dân tỉnh Hà Giang sử dụng DVCTT còn rất thấp trong khi chính quyền đang đầu tư nhiều cho cung ứng DVCTT?
- Hà Giang có những cơ hội và thách thức gì trong việc triển khai DVCTT?
- Làm thế nào để người dân Hà Giang, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số có thể tiếp cận DVCTT thuận lợi hơn?
Tập huấn bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng các tổ chuyển đổi số
Đồng thời, dự án thực hiện tại tỉnh Hà Giang hướng tới ba mục tiêu: (1) đơn giản hóa quy trình một số TTHC công để đưa lên DVCTT một phần và toàn trình; (2) đào tạo, tập huấn cho đội ngũ công chức cấp xã và tổ CĐS cộng đồng ở thôn, thôn bản; và (3) đưa DVCTT đến với cộng đồng dân cư tại các thôn, bản vùng sâu, vùng xã (DVCTT lưu động). UNDP đã đồng hành với tỉnh Hà Giang quá trình thực hiện Dự án này từ tháng 12/2022 tới tháng 12/2023.
Kết quả bước đầu và kinh nghiệm triển khai
Sau 1 năm triển khai Dự án “Cải thiện điều kiện tiếp cận dịch vụ hành chính công cho người dân vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, sáng ngày 05/12/2023, tại tỉnh Hà Giang, đã diễn ra Lễ tổng kết đánh giá những kết quả thu được trong quá trình thực tế triển khai Dự án:
- Đơn giản hóa 10 TTHC công thiết yếu trên Cổng DVC điện tử tỉnh Hà Giang, Điều này liên quan đến việc tích cực xác định và loại bỏ các bước không cần thiết, giảm quan liêu và nâng cao hiệu quả tổng thể của các dịch vụ hành chính công;
- Đào tạo và huy động 10 công chức và 100 cá nhân từ các nhóm hỗ trợ số hóa thôn để hỗ trợ người dân trong cộng đồng vùng sâu vùng xa của họ thực hiện các TTHC thông qua các cổng dịch vụ điện tử;
- Hình thành các dịch vụ hành chính công điện tử di động với sự tham gia tích cực của các nhóm hỗ trợ số hóa tại các thôn vùng sâu vùng xa của 04 xã thuộc huyện Bắc Quang và Xín Mần.
Thành viên các tổ chuyển đổi số cùng các chuyên gia thực hiện Dự án gặp gỡ,
thảo luận và trao đổi kinh nghiệm
Các tổ CĐS cộng đồng đang hoạt động theo kỳ cuộc, phụ thuộc vào kế hoạch từ cấp trên giao. Các tổ hoạt động không thường xuyên. Công việc cơ bản là công tác tuyên truyền.
Tổ CĐS của các thôn có từ 4 - 6 người, có thể họp giao ban 1 - 2 lần/tháng. Trong cuộc họp, các chủ đề không chỉ liên quan tới CĐS, mà các chủ đề khác trong thôn cũng được đưa ra thảo luận, lý do là vì hầu hết các thành viên đều công tác ở nhiều mảng khác nhau. Các tổ có liên lạc nội bộ bằng nhóm Zalo.
Mỗi xã trung bình có từ 8 - 12 tổ CĐS, mỗi thôn một tổ. Tuy nhiên, vai trò của tổ CĐS cũng phụ thuộc vào tình hình ở xã. Ví dụ: Ở xã Tân Quang, địa hình dễ di chuyển và số lượng hồ sơ hành chính không nhiều, các cán bộ ở xã đang là người hướng dẫn chính cho người dân và chưa cần đến tổ CĐS tham gia vào triển khai DVCTT.
“Qua triển khai Dự án chúng ta cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm trong việc cung cấp DVC thực chất hơn để kiển nghị với Chính phủ trong việc thực thi đơn giản hoá TTHC cung cấp DVCTT,” Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hoàng Gia Long cho biết.
Phát biểu tại Lễ tổng kết Dự án được tổ chức tại tỉnh Hà Giang, Trưởng Đại diện thường trú UNDP, bà Ramla Khalidi, ghi nhận mức độ cam kết và nhiệt tình cao ở tất cả các cấp chính quyền, đặc biệt là Trung tâm Dịch vụ Hành chính công tỉnh và Sở Nội vụ tỉnh Hà Giang, trong suốt quá trình thực hiện sáng kiến này.
Ông Hoàng Gia Long chia sẻ: “Chúng ta không thể ngừng lại ở đây… Những kết quả tích cực mà Dự án đã đem lại cần tiếp tục được chia sẻ và nhân rộng ra các địa phương khác trong toàn tỉnh. Những hạn chế, rào cản đã chỉ ra trong quá trình triển khai thực hiện Dự án cần được tiếp thu và có giải pháp khắc phục, để cải thiện điều kiện tiếp cận dịch vụ hành chính công cho người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hà Giang.”
Trưởng Đại diên thường trú UNDP có cùng quan điểm với Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hà Giang rằng những gì đạt được trong Dự án này chỉ là “những bước đi ban đầu” và “cần đảm bảo kết quả được nhân rộng và duy trì không chỉ ở hai huyện Bắc Quang và Xín Mần, mà ở các khu vực khác trong tỉnh,” lan tỏa lợi ích đến nhiều người dân ở các làng, xã và huyện.
Tìm hiểu những khó khăn thực tế mà tổ CĐS gặp phải
Những bài học quý báu và kinh nghiệm mà Hà Giang có thể chia sẻ với các tỉnh khác, đó là: Chính quyền chủ động vào cuộc; Cá nhân cán bộ, công chức tâm huyết; Cam kết mạnh mẽ cải tiến quy trình; Thử nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm; Hỗ trợ người dân kịp thời; Đầu tư nguồn nhân lực và cơ cở hạ tầng.
Bước tiếp theo, tỉnh Hà Giang vẫn cần tiếp tục triển khai và cải thiện mô hình hoạt động của tổ chuyển đổi số cộng đồng. Cải thiện thiết kế các tính năng và giao diện cổng DVCTT. Đưa ra các bước cụ thể để cải thiện cổng DVCTT.
Cần nhấn mạnh hơn về tư duy cung cấp dịch vụ phù hợp với người dân, thay vì đánh giá năng lực của người dân kém nên không sử dụng được.
Những kinh nghiệm thực tế có được từ Hà Giang cần được lan tỏa sâu rộng ra các tỉnh bạn, góp phần giúp Việt Nam đạt được mục tiêu trong Chương trình CĐS quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực DVCTT./.